TAKING TOO LONG?
CLICK/TAP HERE TO CLOSE LOADING SCREEN.
 
 
 
 

Trung Quốc tăng mạnh đầu tư vào Việt Nam

    Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc ngày càng leo thang, các nhà đầu tư Trung Quốc tăng mạnh đầu tư sang Việt Nam hơn 7 tỷ USD, vượt qua số vốn của Hàn Quốc, Nhật Bản hay Singapore, theo Cục Đầu tư nước ngoài tính đến hết ngày 20/5.

    trung quoc tang manh dau tu vao viet nam

    Trung Quốc tăng mạnh đầu tư vào Việt Nam

    Cụ thể, các nhà đầu tư đến từ lãnh thổ Hồng Kông (TQ) đầu tư hơn 5,08 tỷ USD vào Việt Nam trong 5 tháng qua, với hơn 113 dự án cấp mới, 31 dự án tăng vốn thêm và 57 dự án góp vốn mua cổ phần.

    Các nhà đầu tư đến từ Trung Quốc đại lục cũng đầu tư hơn 2,02 tỷ USD vào Việt Nam, nâng tổng vốn đầu tư nước này vào Việt Nam thời gian qua đạt gần 7,1 tỷ USD.

    Cùng với đầu tư, Trung Quốc đại lục cũng xuất khấu sang Việt Nam trên 22,7 tỷ USD trong 4 tháng đầu năm 2019, chiếm 29,5% tỷ trọng, tăng21,93% so với cùng kỳ năm trước.

    Trong số những hàng hóa xuất khẩu sang Việt Nam thì máy móc, thiết bị dụng cụ phụ tùng đạt kim ngạch cao nhất 4,36 tỷ USD, tăng 29,13% so với cùng kỳ, riêng tháng 4/2019 xuất sang Việt Nam đạt 1,1 tỷ USD, giảm 1,25% so với tháng 3/2019 nhưng tăng 33,99% so với tháng 4/2018.

    Đứng thứ hai về kim ngạch là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 3,9 tỷ USD, tăng 87,22% so với cùng kỳ, trong đó tháng 4/2019 đạt 1,16 tỷ USD, tăng 0,95% so với tháng 3/2019 nhưng tăng gấp 2,4 lần (tương ứng 139,65%) so với tháng 4/2018.

    Kế đến là các mặt hàng vải các loại, sắt thép, sản phẩm từ sắt thép…. Đáng chú ý,4 tháng đầu năm 2019 Trung Quốc tăng mạnh xuất khẩu ô tô nguyên chiếc sang Việt Nam, tuy chỉ đạt 59 triệu USD, nhưng tăng gấp hơn 10 lần so với cùng kỳ (tương ứng 940,63%), riêng tháng 4/2019 cũng đã xuất sang Việt Nam 19,8 triệu USD, giảm 14,58% so với tháng 3/2019, nhưng tăng gấp 11 lần so với tháng 4/2018. Ngoài mặt hàng ô tô, Trung Quốc cũng tăng xuất khẩu mặt hàng bông sang Việt Nam, với mức tăng gấp hơn 2 lần (tương ứng 106,29%) đạt 751,3 nghìn USD, riêng tháng 4/2019 xuất khẩu tăng mạnh gấp hơn 2 lần (tương ứng 108,25%) so với tháng 3/2019 và gấp hơn 3 lần (tương ứng 225,37%) so với tháng 4/2018 đạt 397 nghìn USD.

    Ở chiều ngược lại, Việt Nam giảm mạnh nhập từ Trung Quốc nhóm hàng dầu mỡ, động thực vật 70,6% tương ứng với 2,46 triệu USD.

    Hàng hóa nhập từ thị trường Trung Quốc 4 tháng đầu năm 2019

    Mặt hàng

    T4/2019 (USD)

    +/- so với T3/2019 (%)*

    4T/2019 (USD)

    +/- so với cùng kỳ 2018 (%)*

    Tổng

    6.536.188.277

    4,72

    22.770.941.354

    21,93

    Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác

    1.160.416.254

    -1,25

    4.369.836.784

    29,13

    Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện

    1.162.685.830

    0,95

    3.936.939.944

    87,22

    Vải các loại

    735.780.615

    22,31

    2.336.958.587

    16,68

    Điện thoại các loại và linh kiện

    615.033.683

    19,87

    2.058.925.603

    -19,71

    Sắt thép các loại

    357.960.670

    5,87

    1.223.237.360

    -7,43

    Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày

    219.810.114

    3,54

    738.738.648

    14,36

    Sản phẩm từ chất dẻo

    199.594.217

    -1,34

    715.186.513

    13,74

    Sản phẩm từ sắt thép

    152.077.306

    10,85

    563.884.071

    39,5

    Kim loại thường khác

    135.772.667

    -14,15

    541.005.057

    52,91

    Hóa chất

    136.906.182

    -9,44

    517.800.749

    10,85

    Sản phẩm hóa chất

    126.903.004

    0,2

    446.164.474

    5,94

    Xơ, sợi dệt các loại

    117.878.011

    -6,99

    428.444.890

    24,73

    Chất dẻo nguyên liệu

    107.487.044

    -4,79

    381.538.410

    20,68

    Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện

    78.502.640

    -2,48

    330.358.134

    33,55

    Xăng dầu các loại

    97.506.437

    8,64

    319.195.427

    -2,96

    Dây điện và dây cáp điện

    95.202.064

    19,58

    278.484.769

    47,73

    Sản phẩm từ kim loại thường khác

    73.869.862

    -5,44

    273.462.726

    88,04

    Linh kiện, phụ tùng ô tô

    68.181.860

    13,31

    236.190.777

    51,86

    Hàng điện gia dụng và linh kiện

    55.408.377

    12,57

    169.705.808

    1,88

    Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh

    43.819.935

    -8,68

    164.190.559

    2,71

    Thuốc trừ sâu và nguyên liệu

    50.439.203

    48,84

    148.556.970

    2,8

    Gỗ và sản phẩm gỗ

    47.752.429

    28,8

    147.926.245

    35,49

    Hàng rau quả

    39.751.388

    52,12

    127.621.946

    47,45

    Phân bón các loại

    37.396.802

    3,98

    117.481.525

    2,22

    Khí đốt hóa lỏng

    22.845.819

    -37,15

    115.155.594

    6,23

    Than các loại

    29.661.102

    -4,84

    113.357.112

    24,95

    Giấy các loại

    29.259.291

    -2,98

    105.340.990

    0,12

    Sản phẩm từ giấy

    29.304.798

    2,13

    100.375.838

    15,03

    Sản phẩm từ cao su

    27.939.903

    17,58

    94.591.237

    20,4

    Nguyên phụ liệu dược phẩm

    22.535.747

    -16,13

    88.273.081

    5,24

    Thức ăn gia súc và nguyên liệu

    13.926.417

    -22,48

    62.861.064

    -13,18

    Ô tô nguyên chiếc các loại

    19.866.953

    -14,58

    59.041.460

    940,63

    Hàng thủy sản

    12.719.403

    -16,36

    48.864.849

    45,34

    Nguyên phụ liệu thuốc lá

    7.027.651

    -17,24

    38.328.309

    55,61

    Phương tiện vận tải khác và phụ tùng

    13.002.058

    188,04

    33.578.185

    19,95

    Sản phẩm khác từ dầu mỏ

    10.042.779

    12,75

    32.507.181

    22,47

    Cao su

    7.092.145

    -12,71

    25.032.228

    8,87

    Chất thơm, mỹ phẩm và chế phẩm vệ sinh

    4.639.477

    -23,01

    19.903.452

    2,27

    Quặng và khoáng sản khác

    4.332.312

    -23,95

    17.895.437

    -21,33

    Chế phẩm thực phẩm khác

    3.631.387

    -5,73

    15.558.178

    19,26

    Đá quý, kim loại quý và sản phẩm

    2.781.970

    -32,55

    13.329.229

    99,46

    Dược phẩm

    3.346.485

    32,22

    11.297.256

    9,42

    Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc

    2.930.984

    0,72

    9.253.314

    88,05

    Dầu mỡ động, thực vật

    646.048

    -5,91

    2.469.968

    -70,6

    Bông các loại

    397.024

    108,25

    751.376

    106,29

    (*Tính toán số liệu từ TCHQ)

    Đối với các nhà đầu tư thuộc vùng lãnh thổ Đài Loan (TQ) cũng đầu tư vào Việt Nam hơn 570 triệu USD. Nếu tính thêm vốn của nhà đầu tư Đài Loan, chắc chắn lượng vốn đầu tư từ Trung Quốc và có yếu tố Trung Quốc có thể tăng cao hơn nữa.

    Trong nhóm 5 nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam, Hàn Quốc và Singapore đứng ở vị trí thứ 2 và thứ 3 với số vốn lần lượt là 2,6 tỷ USD và 2,08 tỷ USD; nhà đầu tư Nhật Bản đứng vị trí thứ 5 với số vốn đầu tư vào Việt Nam đạt 1,5 tỷ USD.

    Như vậy, sau một thời gian dài chỉ đứng thứ ba hoặc thứ 4 tại Việt Nam, vốn đầu tư của các nhà đầu tư từ Trung Quốc đã vượt qua các nhà đầu tư lớn từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore ở Việt Nam. Đây cũng là tác động của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc suốt thời gian từ năm 2018 đến nay.

    Đáng nói, trong cơ cấu vốn đầu tư tại Việt Nam, doanh nghiệp HongKong (TQ) dành 3/4 lượng vốn để đầu tư mua bán cổ phần, mua lại các doanh nghiệp, số vốn đầu tư mới và tăng thêm vào các dự án cũ của nhà đầu tư này chỉ chiếm chưa đầy 1/4. Điều này cho thấy, nhà đầu tư Trung Quốc vẫn chủ yếu đầu tư vào Việt Nam theo dạng thụ động như hợp tác góp vốn lấy lợi nhuận, mua bán doanh nghiệp cũ, doanh nghiệp lên sàn để chờ đợi thời cơ.

    Theo các chuyên gia, lượng vốn cấp mới, tăng thêm của Trung Quốc vào Việt Nam chủ yếu vào các dự án may mặc, thiết bị điện, bất động sản và xây dựng, chế biến chế tạo có công nghệ thấp, số vốn nhỏ.

    Trung bình, mỗi dự án cấp mới của nhà đầu tư Hồng Kông tại Việt Nam chỉ 6 triệu USD (gần 140 tỷ đồng). Trong khi đó, các nhà đầu tư Singapore rót vốn trung bình gần 9 triệu USD/dự án tại Việt Nam (khoảng 200 tỷ đồng).

    Thời điểm hiện tại, cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc đang ở giai đoạn căng thẳng vượt ra ngoài phạm vi đánh thuế thương mại vào hàng hóa thông thường của Trung Quốc nhập khẩu vào Mỹ. Mỹ đang áp đặt hàng loạt biện pháp trừng phạt nhằm vào các hãng công nghệ, kỹ thuật cao của Trung Quốc như Huawei; công ty chuyên sản xuất các thiết bị giám sát Hikvision; hay hãng công nghệ iCarbonX...

    Trong bối cảnh "thương chiến"Mỹ - Trung Quốc leo thang căng thẳng, từ năm 2018 đến nay, các chuyên gia trong và ngoài nước kỳ vọng Việt Nam sẽ là điểm đến của doanh nghiệp đang làm ăn tại Trung Quốc chuyển vốn sang đầu tư, né rủi ro. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có nhiều doanh nghiệp lớn nào hiện thực hóa điều này.

    Gần đây, ngày 13/5, trên trang mạng xã hội Twitter của mình, Tổng thống Mỹ Donald Trump cho rằng, các công ty chịu áp thuế của Mỹ sẽ rời Trung Quốc sang Việt Nam và các nước tương tự ở châu Á. Điều này cũng khiến những chuyên gia, nhà đầu tư lạc quan về triển vọng Việt Nam sẽ trở thành một trong những nước thu hút được lượng vốn lớn trong tương lai. Tuy nhiên, tất cả vẫn còn ở phía trước và kinh tế Việt Nam cũng chịu tác động không nhỏ từ cuộc chiến mà Mỹ và Trung Quốc dành cho nhau hiện tại.

    Nguồn: VITIC/Dân trí

    Trở về
    logo-tinkinhte.com
    Copyright © 2009  Tinkinhte.com
    Giấy phép số 107/GP-TTĐT - cấp ngày 26/8/2009.
    Hỗ trợ và CSKH: 098 300 6168 (Mr. Toàn)
    E- Mail: admin@tinkinhte.com
    Powered by CIINS
    Thiết kế web và phát triển bởi WebDesign.vn